Những năm gần đây, sản xuất nông nghiệp hữu cơ được nói nhiều, tuyên truyền nhiều trong các hội nghị, hội thảo, trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nhưng, hiểu thế nào là nông nghiệp hữu cơ và nên chọn phương án sản xuất nào có lợi hơn trong điều kiện sản xuất hiện nay đang là vấn đề được quan tâm.

Nông nghiệp hữu cơ đang ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm, song cần có cách tiếp cận phù hợp trong điều kiện cụ thể hiện nay của nước ta. Ảnh: Thái Anh.

Phân biệt rõ nông nghiệp hữu cơ và nông nghiệp an toàn

Sản xuất nông nghiệp hữu cơ (NNHC) là một trong những phương thức canh tác cho ra các sản phẩm sạch, an toàn với ưu điểm vượt trội là thân thiện với môi trường.

Có những ý kiến cho rằng, sản xuất NNHC chỉ đơn thuần là không sử dụng hoá chất (phân bón hoá học, thuốc bảo vệ thực vật, chất kích thích sinh trường…) trong sản xuất nông nghiệp để cho sản phẩm an toàn. Cách hiểu này là không toàn diện, vì không hiểu rõ, hiểu không đầy đủ những điều kiện để sản xuất NNHC ngoài yếu tố không sử dụng hoá chất.

Đồng thời có sự nhầm lẫn giữa phương thức sản xuất NNHC với phương thức sản xuất nông nghiệp an toàn. Bởi vì trong các quy trình sản xuất nông nghiệp an toàn vẫn được phép sử dụng hoá chất (phân hoá học, thuốc bảo vệ thực vật…) với một liều lượng hợp lý trong phạm vi tiêu chuẩn cho phép mà không gây ra ảnh hưởng đến môi trường.

Thực trạng hiện nay về vệ sinh an toàn thực phẩm đang ở tình trạng báo động và là một thách thức lớn đối với đất nước. Để giải quyết vấn đề này, Chính phủ đã có chủ trương đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp an toàn. Nhưng, cũng có những ý kiến và quan điểm lại coi NNHC gần như là biện pháp cứu cánh để giải quyết vấn đề an toàn thực phẩm, từ đó đưa ra chủ trương đẩy mạnh sản xuất NNHC một cách chưa hợp lý.

Empty

Một trong những khó khăn nhất khi phát triển nông nghiệp hữu cơ đó là chi phí cao, giá thành sản phẩm quá cao. Ảnh: Hoàng Trọng.

Trường hợp này có thể có sự nhầm lẫn giữa NNHC và sản xuất nông nghiệp an toàn mà không biết rằng sản xuất NNHC phải đảm bảo các điều kiện rất nghiêm ngặt đã được quy định như đất canh tác không có kim loại nặng hoặc kim loại nặng dưới ngưỡng cho phép; đất canh tác chưa kinh qua sử dụng phân hoá học. Nếu đã bón phân hoá học thì phải có 3 năm chuyển đổi, tức là 3 năm đó liên tục không được bón bất kỳ một loại phân hoá học nào và các loại hoá chất khác, như thuốc bảo vệ thực vật, chất kích thích sinh trưởng, chất bảo quản…

Khu vực canh tác NNHC phải được cách ly nguồn nước bẩn, nước ô nhiễm, nhất là ô nhiễm do sử dụng hoá chất bảo vệ thực vật và các nguồn nước bẩn khác…Thực hiện đúng các điều kiện như nói ở trên thì sản phẩm được sản xuất ra mới được gọi là sản phẩm hữu cơ.

Nên chọn phương thức sản xuất nào hiện nay?

Thực tiễn sản xuất trên thế giới và cả trong nước đều cho thấy, năng suất các loại cây trồng của phương thức canh tác NNHC giảm trên dưới 30%, điều này hoàn toàn có cơ sở khoa học về sinh lý dinh dưỡng cây trồng. Bởi mỗi loại cây trồng đều có nhu cầu dinh dưỡng khác nhau về khối lượng và tỉ lệ các thành phần đạm, lân, kali (N,P,K).

Ví dụ: Để có 1 tấn lúa, cây lúa lấy đi từ đất và phân bón khoảng 18kg N, 3 – 4kg lân (P2O5) và 18 – 20kg Kali (K20). Với cây mía, để có năng suất 60 tấn/ha, cây mía lấy đi từ đất và phân bón 96kg N, 37kg lân (P205) và 115kg Kali (K20)…

Empty

Không nên quá coi trọng phát triển NNHC và không thể coi trọng NNHC trong chiến lược an ninh lương thực quốc gia. Ảnh: TL.

Hãy thử tính hàm lượng đạm, lân, kali (N,P,K) có trong 1 tấn phân hữu cơ, rồi cộng với hàm lượng N,P,K trên 1 tấn sản phẩm cây trồng sẽ thấy có sự chênh lệch, thiếu hụt rất lớn so với nhu cầu dinh dưỡng cây trồng cần có. Nếu bón bổ sung một lượng N,P,K thiếu ấy bằng phân hữu cơ là không khả thi, vì sẽ cần một khối lượng phân hữu cơ rất lớn do hàm lượng N,P,K trong phân hữu cơ thấp và được phân giải chậm, nên không thể đáp ứng được yêu cầu về khối lượng dinh dưỡng theo nhu cầu của cây trồng. Mặt khác, tỉ lệ N,P,K trong phân hữu cơ không thể phù hợp với tỉ lệ N,P,K mà nhu cầu cây trồng cần có. Đó là nguyên nhân cơ bản làm cho phương thức sản xuất NNHC giảm năng suất trên dưới 30%.

Vấn đề nữa, do năng suất cây trồng giảm như vậy, cộng với chi phí khác gia tăng nên giá thành của sản phẩm hữu cơ tăng lên khoảng 2 – 3 lần, dẫn đến giá bán tăng cao gấp 3 – 4 lần hoặc hơn nữa so với sản phẩm cùng loại trên thị trường tự do.

Câu hỏi đang đặt ra khi nói đến phát triển NNHC là trong điều kiện đất hẹp người đông, dân số tăng bình quân hàng năm khoảng 1,05% thì việc phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ cả hiện nay và lâu dài liệu có đảm bảo an ninh lương thực được không? Từ đó chúng ta chọn phương thức canh tác năng suất cao và không ảnh hưởng đến môi trường (sản xuất nông nghiệp an toàn, theo các tiêu chuẩn GAP…) hay chọn phương thức canh tác NNHC năng suất cây trồng giảm trên dưới 30%. Thực chất, phương thức sản xuất NNHC chỉ là một phân khúc trong sản xuất nông nghiệp an toàn. Từ đó, theo người viết bài này, chúng ta không nên quá coi trọng phát triển NNHC và không thể coi trọng NNHC trong chiến lược an ninh lương thực quốc gia.

Đặc biệt cần lưu ý rằng, nước ta là nước đang phát triển, mức thu nhập theo đầu người còn thấp so với một số nước trong khu vực ASEAN và kém xa so với các nước phát triển.

Empty

Sản phẩm đạt các điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm vẫn là cách tiếp cận phù hợp hơn với nhu cầu của đại bộ phận người dân hiện nay. Ảnh: TL.

Hiện tại, phương thức sản xuất nông nghiệp an toàn đã và đang được các địa phương trong cả nước triển khai thực hiện, sản phẩm làm ra tuy có giá bán cao hơn một ít, nhưng với mức sống hiện nay của đại đa số người dân nước ta là có thể chấp nhận được. Trong khi đó, sản phẩm của phương thức canh tác NNHC có giá bán cao hơn giá thị trường 3 – 4 lần thì chắc chắn sẽ không phù hợp với hầu hết người tiêu dùng hiện nay, mà chỉ phục vụ được cho một số ít người có thu nhập cao mà thôi.

Tiếp cận thế nào với nông nghiệp hữu cơ?

NNHC là một phương thức canh tác cho ra sản phẩm an toàn và thân thiện với môi trường. Nhưng, phương thức canh tác này cũng chỉ là phân thức trong nông nghiệp chất lượng cao. Vì vậy, chúng ta không nên tuyệt đối coi chỉ có sản phẩm NNHC mới là an toàn và sạch. Nói như vậy, không có nghĩa là không ủng hộ, không tuyên truyền chủ trương phát triển NNHC. Từ đó, tôi cho rằng cần có cách tiếp cận phù hợp trong việc phát triển nông nghiệp hữu cơ hiện nay:

Empty

Phát triển nông nghiệp hữu cơ là xu hướng cần ủng hộ, song không nên tuyệt đối hóa rằng chỉ có nông sản hữu cơ mới đảm bảo an toàn. Ảnh: Đào Thanh.

Một: Trong thời điểm hiện nay, chỉ nên làm NNHC theo đơn đặt hàng hoặc các hợp đồng với nước ngoài hoặc các doanh nghiệp trong nước để tránh tình trạng sản xuất theo phong trào, theo tuyên truyền chung chung, đến khi sản phẩm hữu cơ làm ra giá thành cao, bán ra thị trường giá cao không ai mua sẽ gây thiệt hại cho nông dân.

Riêng đối với tất cả các loại cây dược liệu, bắt buộc phải sản xuất theo phương thức NNHC.

Hai: Vùng sản xuất NNHC ở tất cả các địa phương nếu có, phải được quy hoạch riêng để không bị ảnh hưởng do sử dụng nguồn nước bẩn, phân bón hoá học, thuốc trừ sâu bệnh… trong quá trình sản xuất đan xen về ranh giới giữa các phương thức sản xuất khác nhau.

Ba: Những người tham gia sản xuất NNHC phải được tập huấn quy trình sản xuất NNHC đầy đủ và trong quá trình sản xuất phải có cơ quan giám sát có uy tín thì mới được cấp giấy chứng nhận sản phẩm NNHC.