Người tiêu dùng trong nước và quốc tế khi mua hoặc nhập khẩu thanh long Bình Thuận có thể quét mã QR để truy xuất nguồn gốc trái cây và mức độ thực hành xanh.

Thời gian qua, một số dự án hỗ trợ kỹ thuật của các tổ chức quốc tế như UNDP, UNIDO, GIZ, IRRI, IDH, Oxfarm… đã triển khai nhiều mô hình thí điểm về ứng dụng công nghệ số trong sản xuất, thu hoạch, phân phối một số loại nông sản chủ lực của Việt Nam như lúa, tôm, cà phê, cây ăn trái… và đã đạt được những thành công nhất định.

Truy vết “dấu chân carbon” thanh long

Tại hội thảo “Chuyển đổi số hướng tới nông nghiệp xanh và phát triển bền vững” do Bộ NN-PTNT và UNDP phối hợp tổ chức ngày 17/8 tại Hà Nội, lần đầu tiên UNDP và Bộ NN-PTNT giới thiệu mô hình về hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử để theo dõi xuất xứ và “dấu chân carbon” của từng trái thanh long được sản xuất tại Bình Thuận.

Ông Vũ Tấn Phương, tư vấn Dự án NDC Nông nghiệp. Ảnh: Bảo Thắng.
Ông Vũ Tấn Phương, tư vấn Dự án NDC Nông nghiệp. Ảnh: Bảo Thắng.

Theo ông Vũ Tấn Phương, tư vấn Dự án NDC Nông nghiệp, với hệ thống này, người tiêu dùng trong nước và quốc tế khi mua hoặc nhập khẩu thanh long từ vùng sản xuất trọng điểm Bình Thuận có thể quét mã QR để truy xuất nguồn gốc trái cây và mức độ thực hành “xanh” hoặc thân thiện với môi trường được áp dụng để sản xuất ra trái cây này một cách minh bạch nhất.

Các thiết bị thông minh tự động đo lượng phát thải khí carbon được lắp đặt tại từng vườn trồng, cập nhật lên không gian mạng cho phép theo dõi và thống kê “dấu chân carbon” theo thời gian thực. Không chỉ dừng lại ở đó, công nghệ này còn phân tích để đưa ra các giải pháp giảm phát thải carbon trong sản xuất, vận chuyển nông sản.

Đến nay, đã có 99 vườn trồng của nông dân thuộc 4 hợp tác xã tại Bình Thuận (HTX Thanh long Hòa Lệ, HTX Hàm Minh, HTX Thuận Tiến, Công ty Phúc Hà) đã được cấp tài khoản tham gia hệ thống này.

Thời gian qua, các vùng trồng thanh long ở Bình Thuận đã áp dụng các giải pháp canh tác giảm phát thải carbon. Tiêu biểu có thể kể tới cải thiện hiệu quả sử dụng điện chiếu sáng, chuyển từ bóng compact sang đèn led. Hiện nay tại Bình Thuận, tỷ lệ hộ dân trồng thanh long sử dụng đèn led thay thế compact trên các vùng trồng theo tiêu chuẩn GlobalGAP đạt 73%; VietGAP đạt 45%; hữu cơ đạt 50% và truyền thống đạt tỷ lệ 35%.

Vùng thanh long Bình Thuận đã áp dụng nhiều giải pháp canh tác theo hướng giảm phát thải, sản xuất "xanh". Ảnh: KS.
Vùng thanh long Bình Thuận đã áp dụng nhiều giải pháp canh tác theo hướng giảm phát thải, sản xuất “xanh”.

Với việc chuyển sử dụng bóng điện chiếu sáng cho cây thanh long từ bóng compact sang đèn led, có thể giảm tới 68% lượng phát thải từ sử dụng điện năng, giúp sản xuất thanh long “xanh” hơn, góp phần bảo vệ môi trường. Trồng xen cây thân gỗ tại các bờ bao, đường ranh giới, các khoảng trống trong vườn thanh long cũng đã giúp hấp thu khí carbon do cây thanh long thải ra. Ước tính trồng 100 – 300 cây thân gỗ/ha sẽ hấp thụ được 0,9 – 2,8 tấn CO2/ha/năm, tương đương giảm 20 – 45% lượng phát thải tại trang trại.

Ông Nguyễn Đức Trí, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông tỉnh Bình Thuận cho rằng, lộ trình chuyển đổi số có thể bắt đầu từ các khâu khác nhau tùy theo nhu cầu và điều kiện của từng đơn vị, song phải hướng đến tổng thể của tất cả các khâu (từ đầu vào, sản xuất, chế biến, thu mua, phân phối, thị trường…). Tại đây, các cơ quan quản lý nhà nước ngành nông nghiệp có vai trò vô cùng quan trọng trong định hướng, tạo điều kiện thúc đẩy, kết nối và đầu tư ban đầu cho chuyển đổi số.

Ứng dụng công nghệ số để nâng cao năng lực xuất khẩu trái cây

Liên quan đến số hóa và áp dụng trong ngành hàng trái cây để nâng cao năng lực xuất khẩu của các nhà sản xuất Việt Nam, bà Hoàng Mai Vân Anh, đại diện Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hiệp Quốc (UNIDO) cho biết, cơ quan này đã đồng hành với Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NN-PTNT) đưa ra nhiều hỗ trợ kỹ thuật để nâng cao năng lực tuân thủ tiêu chuẩn chất lượng cho ngành trái cây.

Công nghệ số ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ giám sát sản xuất, truy xuất sản phẩm, quản lý sản xuất theo hướng giảm phát thải. Ảnh: TL
Công nghệ số ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ giám sát sản xuất, truy xuất sản phẩm, quản lý sản xuất theo hướng giảm phát thải. Ảnh: TL

Bên cạnh các giải pháp công nghệ, thực hành trong các khâu từ sản xuất, sơ chế, chế biến, xuất khẩu, UNIDO cũng hỗ trợ các giải pháp số hóa để tăng sự minh bạch trong chuỗi cung ứng, tạo niềm tin cho doanh nghiệp trên thị trường và người sản xuất, người tiêu dùng với sản phẩm.

Ví dụ như nền tảng số hóa để xác định các nguyên nhân chính về sự chưa tuân thủ tại các thị trường xuất khẩu chính (công cụ SCA, số hóa các quy trình thao tác chuẩn sản xuất và xuất khẩu trái cây – SOPs); kích hoạt tính toàn diện, thông minh với khí hậu và truy xuất nguồn gốc chuỗi cung ứng toàn cầu (hệ thống Koltitrace); nhật ký vùng trồng truy xuất nguồn gốc và quản lý mã số vùng trồng, mã số nhà đóng gói.

Ông Nguyễn Quốc Toản, Giám đốc Trung tâm Chuyển đổi số và Thống kê nông nghiệp (Bộ NN-PTNT) cho rằng, người tiêu dùng thông minh quan tâm đến sức khỏe, minh bạch, giá trị xã hội, không gian tương tác. Do đó, vùng nông thôn sẽ là nhân tố thúc đẩy giai đoạn bùng nổ tiếp theo của nền kinh tế số. Theo ông Toản, ứng dụng số vào nông nghiệp và phát triển nông thôn sẽ được mở ra nhiều hướng, trong đó công nghệ số hóa như cảm biến, hệ thống giám sát tự động, trí tuệ nhân tạo (AI) sẽ được áp dụng để theo dõi và điều chỉnh quy trình sản xuất nông nghiệp, nâng cao năng suất và chất lượng nông sản.

Bình Thuận có tổng diện tích thanh long khoảng gần 28.000ha với phân nửa diện tích trồng theo tiêu chuẩn hữu cơ, VietGAP, GlobalGAP. Sản lượng đạt khoảng 600.000 tấn/năm, trong đó khoảng 80 – 90% phục vụ xuất khẩu. Giải pháp chuyển đổi số sẽ thúc đẩy quá trình chuyển đổi “sản xuất xanh” nhanh và hiệu quả hơn, góp phần đáp ứng yêu cầu từ thị trường, nhất là thị trường xuất khẩu và giúp Việt Nam đạt được cam kết của Chính phủ về các mục tiêu giảm phát thải.